5 thg 12, 2011

Kinh tế toàn cầu bị điều khiển bởi tinh thần động vật (phần 1)


George A. Akerlof, giáo sư kinh tế tại Đại học California

George A. Akerlof sinh ngày 17/6/1940, là nhà kinh tế học Mỹ theo trường phái Kinh tế học Keynes và là giáo sư kinh tế tại Đại học California, Berkeley. Ông đồng nhận giải Nobel kinh tế với Michael Spence và Josepth E năm 2001.
Robert J. Shillergiáo sư kinh tế Đại học Yale

Robert J. Shiller sinh ngày 29/3/1946, là nhà kinh tế học Mỹ, giáo sư kinh tế Đại học Yale. Ông là một trong 100 nhà kinh tế có ảnh hưởng nhất thế giới và là tác giả cuốn sách nổi tiếng Irrational Exuberance.
Dvt xin trận trọng giới thiệu với bạn đọc bài viết của hai tác giả.

(DVT.vn) - Cần phải nhắc lại những bài học của cuộc Đại Suy thoái những năm 1930, phải thấu hiểu những bài học ấy để biết việc gì nên làm ngay bây giờ.

Họ đã quên hết những bài học từ quá khứ
Cuộc sống đôi khi có những khoảnh khắc thật kỳ diệu. Trong cuốn Chiếc bát vàng (The Golden Bowl) của nhà văn, nhà phê bình văn học Mỹ Henry James, khoảnh khắc đó chỉ là một ánh mắt thoáng qua - rồi sau đó, người đàn bà thừa kế người Mỹ biết rằng những ngờ vực của mình là chính xác: Chồng mình và vợ của cha mình thậm thụt với nhau. Đối với nền kinh tế thế giới thì ngày 29/9/2008 là một khoảnh khắc như thế. Quốc hội Mỹ đã từ chối (mặc dù sau này họ đã thay đổi quyết định) thông qua kế hoạch giải cứu trị giá 700 tỉ đô la của Bộ trưởng Bộ Tài chính Henry Paulson đề xuất. Chỉ số thị trường chứng khoán Dow Jones sụt mất 778 điểm. Các thị trường chứng khoán trên khắp thế giới sụp đổ. Thật ngạc nhiên, những gì tưởng chừng như chỉ là một viễn cảnh xa vời - sự lặp lại của cuộc Đại Suy thoái - giờ đây lại trở thành một khả năng thực sự.

Cuộc Đại Suy thoái chính là thảm họa của thế kỷ trước. Trong thập niên 1930, nó đã dẫn tới tình trạng thất nghiệp trên toàn thế giới. Và sau đó, dường như những mất mát mà tự nó gây nên là chưa đủ, khoảng trống quyền lực mà nó tạo ra đã châm ngòi cho Đại chiến Thế giới lần thứ II, khiến cho hơn 50 triệu người đã thiệt mạng oan uổng.

Sự tái hiện của cuộc Đại Suy thoái hiện giờ là có khả năng bởi các nhà kinh tế, Chính phủ và dư luận chung trong những năm gần đây ngày càng trở nên tự mãn. Họ đã quên hết những bài học từ thập niên 1930. Trong những năm tháng đầy khó khăn đó, chúng ta đã nhận ra cách thức hoạt động thực sự của nền kinh tế. Chúng ta cũng đã nhận thức được vai trò thích đáng của Chính phủ trong một nền kinh tế tư bản sung mãn. Chính vì vậy, cần phải nhắc lại những bài học đó, chúng ta phải thấu hiểu chúng để biết việc gì nên làm ngay bây giờ.

Nhà kinh tế học người Anh, John Maynard Keynes


Vào giai đoạn giữa của cuộc Đại Suy thoái, nhà kinh tế học người Anh, John Maynard Keynes đã xuất bản cuốn The General Theory of Employment, Interest and Money (tạm dịch: Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ). Trong kiệt tác được xuất bản vào năm 1936 này, Keynes đã cho thấy làm thế nào mà các Chính phủ tín dụng đáng tin như Hoa Kỳ và Anh có thể vay và chi, nhờ đó mang lại công ăn việc làm cho người thất nghiệp. Đơn thuốc này đã không được áp dụng một cách có hệ thống trong suốt thời kỳ Suy thoái. Chỉ đến lúc cuộc Đại Suy thoái qua đi, các nhà kinh tế mới bắt đầu đưa ra định hướng rõ ràng cho các chính trị gia. Thế nên các nhà lãnh đạo mới lúng túng như gà mắc tóc. Chẳng hạn như ở Mỹ, cả tổng thống Herbert Hoover lẫn tổng thống Franklin Roosevelt đều dính dáng đến vài khoản chi tiêu thâm hụt. Mặc dù mơ hồ đến đáng sợ, nhưng nhìn chung họ đều có trực giác đúng đắn, và phần lớn các chính sách của họ đều đi đúng hướng. Tuy nhiên, vì họ không nhận được bất kỳ định hướng nào nên họ không đủ tự tin để theo đuổi đến cùng những chính sách đó.

Cho đến khi việc vay và chi theo đúng tinh thần của Keynes rốt cuộc cũng diễn ra để chống lại chiến tranh thì tình trạng thất nghiệp biến mất. Đến thập niên 1940, đơn thuốc của Keynes đã trở thành chuẩn mực và nó được áp dụng ở nhiều quốc gia trên toàn thế giới, thậm chí còn được trân trọng đưa vào luật. Ở Hoa Kỳ, Đạo luật Việc làm (Employment Act) năm 1946 quy định việc giải quyết công ăn việc làm đầy đủ là trách nhiệm của liên bang.

Các nguyên tắc của Keynes về vai trò của chính sách tiền tệ và tài khóa trong cuộc chiến đấu chống suy thoái đã trở nên ăn sâu bám rễ vào tư duy của các nhà kinh tế và các chính trị gia, các học giả và một  bộ phận công chúng. Ngay cả Milton Friedman quá cố cũng được cho là đã từng nói rằng: “Hiện giờ, tất cả chúng ta đều là những người theo thuyết Keynes (Keynesian)” - mặc dù sau đó ông phủ nhận tuyên bố của mình. Đúng vậy, cuộc đời có những lúc thăng trầm. Đã có những bước nhảy vọt lớn, chẳng hạn như nước Nhật vào thập niên 1990, Indonesia sau năm 1998, và Argentina sau 2001. Thế nhưng cái nhìn toàn cảnh về nền kinh tế thế giới cho thấy rằng toàn bộ thời kỳ hậu chiến đã, đang và sẽ tiếp tục là một thành công. Hết đất nước này đến đất nước khác duy trì được chỉ tiêu kiểu như đầy đủ công ăn việc làm. Giờ đây, Trung Quốc và Ấn Độ đã tiết chế bớt khuynh hướng chủ nghĩa xã hội của mình, với dân số khổng lồ, họ cũng bắt đầu trải nghiệm nền kinh tế thịnh vượng và tăng trưởng.

Bên cạnh tính hữu ích của vấn đề tài chính thâm hụt nhằm thoát khỏi suy thoái, một thông điệp quan trọng khác của Lý thuyết tổng quát (The General Theory) cũng bị cho ra rìa. Đó là phân tích sâu hơn của Keynes về cách thức vận hành của nền kinh tế và vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế đó. Năm 1936, khi cuốn Lý thuyết tổng quát được xuất bản, ở một cực của dải màu kinh tế - chính trị (political-economic spectrum) là những kẻ cho rằng các nhà kinh tế già cả trước thời Keynes mới là đúng. Theo những nhà kinh tế cổ điển này thì các thị trường tư nhân, bằng chính nội lực của mình mà không cần đến sự can thiệp của Chính phủ, sẽ đảm bảo cung cấp đủ công ăn việc làm “như thể bằng một bàn tay vô hình”. Trong hình thức đơn giản nhất, logic cổ điển này cho rằng, nếu một công nhân sẵn sàng làm việc để kiếm được ít hơn so với những gì mà cô ta có thể sản xuất ra thì một ông chủ có thể kiếm lời bằng cách trao cho cô ta một công việc. Các lão già với những quan điểm này đã hối thúc việc cân đối ngân sách và khăng khăng yêu cầu giảm thiểu vai trò điều tiết của Chính phủ. Ở cực kia của dải màu trong năm 1936 là các nhà Xã hội Chủ nghĩa. Họ cho rằng quá trình hồi phục sau tình trạng thất nghiệp thập niên 1930 chỉ có thể hoàn thành một khi Chính phủ nắm lấy việc kinh doanh. Sau đó Chính phủ sẽ loại trừ tình trạng thất nghiệp bằng cách tự mình thuê mướn nhân công.

Nhưng cách tiếp cận của Keynes thì khiêm tốn hơn. Theo quan điểm của ông, nền kinh tế không chỉ bị thống trị bởi các yếu tố lý trí, những yếu tố “như thể bằng một bàn tay vô hình” sẽ can thiệp vào bất cứ giao dịch nào liên quan đến lợi ích kinh tế lẫn nhau của cả hai bên, theo đúng quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển. Keynes cho rằng hầu hết hoạt động kinh tế đều là thành quả của các động cơ lý trí về kinh tế, nhưng đồng thời hoạt động kinh tế đó cũng bị điều khiển bởi tinh thần động vật (animal spirits). Trong con người tồn tại những động cơ phi kinh tế. Trong quan điểm của Keynes, tinh thần động vật là lý do chính của những biến động kinh tế thường thấy. Nó cũng là lý do chính của tình trạng thất nghiệp không tự nguyện.

Thế nên, để nắm bắt được nền kinh tế chúng ta phải hiểu được cách thức nền kinh tế bị điều khiển bởi tinh thần động vật. Nếu như bàn tay vô hình của Adam Smith là yếu tố chủ đạo trong quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển thì tinh thần động vật của Keynes chính là yếu tố chủ đạo của một quan điểm kinh tế khác hẳn - một quan điểm lý giải cho những biến động ngầm của Chủ nghĩa Tư bản.
Trịnh Thanh Thủy dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét